Đi về đâu cũng là thế.

Về phim “Người trở về” (ghi chép tóm tắt)



Tôi đi xem phim này theo dòng review đẫm nước mắt của 1 chị đạo diễn, với tâm thế là chắc cũng sẽ khóc lóc dầm dể vì vốn là một kẻ dễ mau nước mắt, nhưng vẫn băn khoăn là xem phim chiến tranh thì rốt cuộc mình sẽ khóc vì đồng cảm với điều gì. Không ít lần tôi tìm kiếm gắn kết với những thứ thuộc miền di sản nhưng bất thành vì gặp phải các tác phẩm minh họa rất dở.
Rạp phim hôm ấy khá đông, phần lớn là các bác và các anh chị trong quân đội, hoặc người quen của đoàn phim, mọi người có vẻ đều trầm tính và điềm đạm. Phim mở màn bằng cảnh đám cưới rước dâu qua sông trên một con thuyền gỗ thô mộc có dán chữ hỷ đỏ, pháo nổ rền, cô dâu mặc áo sơ mi (kiểu sơ mi mà tôi vẫn thấy trong mấy bức ảnh của mẹ , bác tôi hồi xưa, có tên riêng hay sao mà tôi không nhớ rõ), tay cầm bó hoa lay ơn. Sự tương phản của màu xanh sông nước cùng với màu đỏ hơi chuyển cam khiến tôi rất thích, đó là thứ màu của ảnh phim hoặc phim nhựa, thứ màu retro rất dễ làm mọi thứ trong khung hình trở nên đẹp đẽ một cách hoài cổ. Và hình như cũng vì phim được chiếu bằng chính bản phim nhựa 35mm mà cảm giác cũng có chút cảm mến hơn. Đám hỷ khi đã hòa bình ấy đáng nhẽ có thể trở thành khởi đầu cho một cuộc sống bình dị mới, nhưng rốt cuộc lại là mồi lửa châm lên những chuỗi ngày đầy nước mắt cho các nhân vật. Đám cưới của San (nam chính) và Thanh, cũng chính là ngày trở về của Mây- cô nữ quân y vốn tưởng đã bỏ mạng nơi chiến trường. Mây trở lại bến sông Châu, đưa ánh mắt vừa rạng rỡ, vừa lo lắng, vừa bơ vơ như của một kẻ xa xứ nay hóa thành kẻ tha hương, dự cảm rằng dù có đặt chân lại về mảnh đất bồi này rồi, thì hình như cũng chính miền đất này đang thầm chối từ cô. Khi người cha vội vã chèo đò, rồi đầm mình ngã sấp trên bến nước đón cô con gái tưởng đã chết, khi họ ôm chầm lấy nhau và nước mắt bắt đầu rơi không ngớt thì cũng là lúc bi kịch chính thức bắt đầu.
Phim lấy đề tài hậu chiến và tập trung khai thác theo khía cạnh không mới đó là tâm lý chấn thương của những người trở về sau chiến tranh nhưng không tìm được cách hòa nhập lại với đời sống do luôn bị ám thị đau đớn từ quá khứ. Nội dung này thể hiện tập trung ở nhân vật Mây, thông qua những giấc mơ đồng thời là ký ức đeo bám cô mỗi đêm, giấc mơ về những người lính, người đồng đội thân thể đầy vết thương máu, không còn nguyên dạng hình do bom đạn. Tuy nhiên, chính việc đan xen khắc nỗi đau hậu chiến song song cùng nỗi dằn vặt vì mối tình lỡ dở làm phim có chất nữ tính và bớt màu sắc minh họa đi tương đối nhiều. Mây hiện lên như một người luôn không thể nhập cuộc, kể cả trong chiến tranh, cô bất lực vì không thể cứu được đồng đội; về lại nơi thân thuộc, cô bất lực vì không giữ được thứ tình yêu và con người vốn thuộc về mình. Đó là nỗi đau mang thiên tính nữ, nỗi đau không thể làm tròn được bổn phận. Cũng chính vì mặc cảm ấy mà Mây đã chối từ cơ hội làm lại cuộc đời với anh lính chung tình cùng chiến đấu năm xưa. Vì vậy, tôi có thể cảm nhận được giọt nước mắt trong những thước phim là của người phụ nữ, chứ không còn là giọt nước mắt minh họa như nhiều tác phẩm cố nhỏ vào mắt của những người lính.
Về việc khai thác nhân vật, ngoài thân phận Mây được lấy làm trung tâm, những nhân vật phụ xuất hiện không bị mờ nhạt, đều có đất diễn. Riêng trường hợp của Thanh (nữ phụ, vợ của San) và người phụ nữ điên đã để lại dấu ấn khá tốt, kể từ tạo hình đến tính cách đều làm người xem nhớ, cũng chính là nét chấm phá tô đậm thêm dòng mạch ngầm về chất nữ tính và nỗi bất hạnh của người phụ nữ trước biến cố chiến tranh. Các nhân vật khác như bố Mây, anh trai Mây, chị dâu, mẹ và chú của San đều có những câu chuyện riêng để kể với khán giả: từ chuyện chặt mất ngón tay để trốn đi lính hay vì đi lính mà không còn là đàn ông. Những chi tiết tuy nhỏ nhưng được tích cóp, gài cắm có chủ ý, giản dị nhưng gọn gàng, chỉn chu làm bộ phim toát lên một sự dụng tâm rất đáng quý trọng.
Diễn xuất trong phim của các diễn viên khá tròn trịa nhưng đôi lúc hơi over nên bị gượng. Nữ chính do Lã Thanh Huyền đảm nhiệm có điểm cộng là nét thanh nhẹ mỏng manh của ngoại hình và hành động, nhưng cái thần thái của người phụ nữ chịu nhiều dằn vặt và bất hạnh thì diễn chưa ra. Nữ phụ đóng vai Thanh có nét đẹp lạ, diễn khá tự nhiên, tuy vậy có một vài cảnh có lẽ cho dựng hoặc quay chưa tiết chế nên bị kịch một chút. Các vai nam tốt hơn.
Cách tự sự của phim khá thuần nhất, sự việc hiện tại diễn biến tuyến tính, quá khứ tái hiện qua giấc mơ khiến người xem nắm bắt dễ dàng nội dung, nhưng cũng chính vì vậy mà đôi lúc gây cảm giác hơi nhàm và dài dòng do lặp lại motif này nhiều lần. Các đoạn hồi ức chiến tranh xây dựng theo kiểu mẫu, không có nhiều kịch tính hoặc độ lắng đủ nên chưa gây được sự xúc động thực sự cho người xem. Duy có đoạn cô lính quân y níu chặt tay anh lính gương mặt bê bết máu không còn rõ dạng hình, rưng rưng “Hà Nội ơi, dáng huyền tha thướt đê mê/ Tóc huyền thả gió lê thê” là tôi suýt khóc thật.
Sắp đặt dàn cảnh, phục trang khá chỉn chu và giàu tính tạo hình. Ở một cảnh phim theo như trí nhớ của tôi, khi mà cô con dâu mang bụng bầu mặc một chiếc áo gile len màu vàng nâu bên ngoài sơ mi trắng, bên cạnh là mẹ chồng với chiếc áo nâu mận và cái khăn mỏ quạ nhung xanh lam óng lên, tôi cứ ngỡ có thể chụp làm ảnh cho lookbook thu đông của một nhãn hàng thời trang cao cấp ngay được. Bối cảnh nhà thôn dã, cả ngoại cảnh lẫn nội đều đem lại cảm giác chân thật; đặc biệt những cảnh trong nhà, thường là tối nhưng ánh sáng bố trí mon men le lói rất đẹp. Nhiều cảnh xem mà chỉ muốn chụp ảnh lại.
Có một điều tiếc nuối là tôi không tìm được tác phẩm văn học gốc của nhà văn Sương Nguyệt Minh để có thể có những đối sánh về chuyển thể. Nhưng với những gì tôi được xem, “Người trở về” không phải là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc nhưng là một bộ phim được làm có tâm, chỉn chu, tròn trịa, khơi gợi được cảm xúc nơi khán giả.
Trên đây là những ghi chép dựa trên những gì tôi còn nhớ được, mọi người đọc là thấy có hứng thú chút chút nào thì đi xem nhé!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến