Những kẻ mộng mơ - chẳng có cái kết nào đủ trọn vẹn
Vì cái nạn kẹt xe ở thủ đô nên tôi vào rạp chiếu muộn mất chừng 20 phút, trừ đi quảng cáo thì còn 10 phút. Chao ôi mười phút ban đầu của một bộ phim mới quan trọng nhường nào, nghe đồn opening scene dàn dựng dữ lắm, quay đại cảnh giả one take giữa đường giữa phố, mở màn là cảm nhận được không khí phim ngay, vì là "còn gì L.A hơn là khung cảnh giao thông phố phường cơ chứ". Tại sao lại là L.A chứ không phải bất cứ một nơi nào khác? Damien Chazelle trong một bài phỏng vấn với W magazine đã bộc bạch rằng, khung cảnh và câu chuyện của Lala land chính là một phần tuổi trẻ cuồng nhiệt của anh. Chàng trai gia giáo Damien tốt nghiệp Harvard, nhưng đã quyết định lao đến thiên đường của nghệ thuật mà bất cứ một nghệ sĩ trẻ nhiều tham vọng nào cũng từng một lần mơ tới. "Ở L.A, họ chẳng thèm để tâm tới bằng cấp hay việc bạn có được điểm A ở đại học hay không" - Damien nói.
Một điều thú vị là Lalaland được thai nghén và chắp bút trước tác phẩm ấn định tên tuổi của Damien "Whiplash" tới bốn năm, nhưng khi ấy, tập kịch bản về những kẻ khờ mộng mơ của anh đã chẳng được bất cứ nhà sản xuất nào đoái hoài tới. Và giờ thì chắc rằng, nếu vị đạo diễn 31 tuổi chỉ cần đánh tiếng mình lại có một kịch bản nhạc kịch, thì chẳng cần chào mời, thậm chí chẳng cần đọc, sẽ có khối kẻ lao tới mà dâng hầu bao.
Bộ phim âm nhạc đầu tiên của Damien Chapelle mang tên Guy and Madeline on a Park Bench, một bộ phim indie "mẫu mực", tưởng nhớ Jacques Demy (đạo diễn bộ phim ca nhạc The Umbrellas of Cherbourg làm năm 64, phim này thì mình xem đợt học phân tích phim rồi, hát đến từng câu thoại luôn) với những shot quay đen trắng mộc, và diễn viên cũng chính là em gái của đạo diễn. Từ Guy and Madeline on a Park Bench cho tới Lalaland là cả một quãng đường dài, một sự trưởng thành và chắc tay thấy rõ về kỹ thuật, nhưng cách làm phim, cách trân trọng và không để câu chuyện của mình biến thành mainstream thì không hề đổi khác. Lalaland hoàn toàn khác với Mamamia, Les Misérables hay Into the wood,... những nhân vật của Damien dường như là chính họ, với niềm say mê âm nhạc xuất phát từ sâu thẳm chứ chẳng cần diễn xuất gắng gượng. Emma stone, nhận lời tham gia Lalaland trong quá trình cô đang diễn tập cho vở nhạc kịch broadway, không một chút ngần ngại.
“But I had loved Whiplash, and Damien talked about Demy and how he wanted to shoot in real locations and make them look larger than life. The whole idea for La La Land was scary and different, and, finally, I had to say yes.” - nàng đã nói thế, và rồi xuất hiện và khiến lòng người say đắm trong từng bước đi duyên dáng, từng điệu xoay váy lúng liếng, từng cái gõ chân tab dance tinh nghịch, trong giọng hát không kịch tính và "chuẩn" nhưng đầy tự sự. Emma rõ ràng có cái nét của một diễn viên sân khấu, từ đôi mắt to hay trợn trừng và biết nói, biểu cảm biến hoá từ nhẹ hàng cho đến "kịch" đều hay. Và rất tuyệt khi Damien chọn cho nhân vật Mia ước mơ then chốt là một kẻ độc diễn chứ không phải một ngôi sao, vì với nghề nghiệp này, nhân vật phải tự đối diện là thử nghiệm bản thân nhiều hơn. Trong khi Seb có một band nhạc để cùng luyện tập, thì Mia luôn chỉ một mình, với căn phòng như thủa nhỏ và thế giới của người dì. Nỗi cô đơn của hai người nghệ sĩ này dường như đối lập, khi một người chọn cách tách mình để tìm bản ngã, trong khi người kia chọn cách hoà mình, thoả hiệp nhưng cuối cùng vẫn lạc lõng.
Khi câu chuyện thử thách nhân vật, thì đồng thời kịch bản cũng thử thách chính người nhập vai. Ryan đã thực sự chơi piano trong phim, anh tập luyện nó mỗi giờ trong ba tháng liền, và là chơi jazz chứ không phải những bản ballad với hoà thanh đơn giản. Ngay cả diễn viên phụ, ngôi sao John Legend cũng đã học chơi Guitar để có thể tự tin diễn xuất trong lần đầu xuất hiện trên màn ảnh, trước đó chính là Miles Teller với màn drum solo "huyền thoại" trong Whiplash. Có thể Damien không yêu cầu gắt gao với Ryan hay bất kỳ ai, nhưng bằng sự thấu hiểu của những người trân trọng nghệ thuật, họ buộc lòng dốc hết tâm sức cho từng kỹ năng, trong từng phân cảnh dù là nhỏ nhất, và họ hiểu, "trong nghệ thuật, không ai được làm cái gì nửa vời cả.". Đây là câu mà tôi mượn Sing street, cũng là một bộ phim âm nhạc nhưng của John Carney, lại là một bậc thầy trong chuyển tải âm thanh lên màn ảnh. Nếu không có Lala land thì Sing street nghiễm nhiên trở thành phim âm nhạc xuất sắc nhất năm 2016 rồi, thế nhưng ngựa ô vào phút chót mới tung đòn, lại đúng mùa phim giáng sinh ồn ã nên có phần lấn lướt hơn.
John Carney thành danh từ đảo quốc Iceland bé nhỏ với bộ ba phim đình đám: Once, Begin Again và giờ tới Sing street. Tôi nhớ tới John Carne vì ông cũng là nhà làm phim độc lập kiên định theo đuổi giai điệu và những mộng mơ: của một cặp đôi lỡ thì khốn khổ với cuộc sống, một cặp đôi "mainstream" với sự lựa chọn tình yêu và danh vọng, một cặp đôi tuổi teen mông lung và chông chênh với tương lai bất định. Chất âm nhạc của John Carney có phần khác với Damien, đường phố, bình lặng và dễ chịu hơn; trong khi Damien có phần mực thước và cổ điển. Vị đạo diễn trẻ chọn jazz ngẫu hứng nhưng ẩn chứa luật lệ cùng sự phức tạp khôn lường, và không khó nhận ra nét hoài cổ, sự tri ân trong nhiều thước phim với những bậc thầy đi trước (rạp chiếu The Rialto nơi có những bộ phim cũ, những chiếc cột đèn trong Singing in the rain, điệu vans và tab kinh điển trong Top Hat ,.. ). Lala land có nét thu hút yêu kiều của Hollywood những năm 50-60, trong khi Sing street nổi loạn, hấp dẫn và bất cần của punk rock thập niên 80. Nhưng đoán xem, điểm chung giữa hai "tính cách" đối lập này là gì? Chính là những giấc mơ, những mộng đẹp sẽ chẳng thể có cái kết đủ trọn vẹn. Không có giấc mơ nào kéo dài vô tận, không có kỷ niệm nào đủ níu giữ thực tại xoay vần. Seb và Mia, dù cho có trao nhau nụ hôn mặn nồng ngay khoảnh khắc gặp gỡ cũng không thể thay đổi hiện tại, Conor và Raphia dắt tay nhau vượt biển, ai đảm bảo cho chúng về một tương lai không có bão tố hay sương mù. Nhưng ai quan tâm rồi sau thế nào, chúng ta đã chọn ước mơ và theo đuổi, vậy là đủ!
NYTimes đã giật tít rất kêu "La La Land Makes Musicals Matter Again", nghe cứ như khẩu hiệu của bác Nam Trung đem đi mị dân Mỹ. Không biết bác Trung có yêu nhạc kịch hay không, nhưng phim này thì bác nên xem ngay nhé vì nó "great" như nước Mỹ tương lai của bác vậy. La la land dùng nhiều kỹ thuật để tái hiện ra đúng không khí "sân khấu" của nhạc kịch cổ điển: sử dụng one-take, phông nền tượng trưng, ánh sáng tập trung vào nhân vật khi độc tấu hay độc diễn, ánh sáng với hiệu ứng mầu trong những cảnh cận gây được cảm xúc tâm lý tuyệt vời.. Những cảnh khiêu vũ quay bám tròn uyển chuyển quanh nhân vật cực đẹp, chuyển cảnh mượt nhưng vẫn cố tạo ra không khí chuyển phông nền trên sân khấu. Trang phục phim thì chao ôi! Mọi người có thể mê mẩn bộ vát vàng óng trong buổi tối "lovely" hay chiếc đầm đen sóng sánh trễ nải, chứ tôi thì tôi tuyệt đối bị "chết đứng" với cái áo sơ mi cổ 2 ve tinh tế của Seb, lại còn nồi trên cái xe mui trần nhấn còi inh tai rất bố đời nữa chứ!
Dù bỏ lỡ mất cảnh đầu, nhưng cảnh cuối chính là thứ khiến tôi sẵn sàng cho La la land vào danh sách phim xem lại hàng năm (cùng Love Actually, Chungking express và Mr Nobody). Damien Chapelle đã làm được thứ mà người ta cho rằng anh sẽ không thể làm tốt hơn được nữa với kết thúc choáng ngợp trong Whiplash. Nhưng bằng một cách nào đó, lịch sử lặp lại. Mười phút cuối cùng sao mà diễm lễ và đẹp đẽ đến thế, một mạch cảm xúc về thị giác, âm nhạc hoàn hảo, cho đến tận khi ngón tay của Seb gõ đến nốt cuối cùng. Mơ hay thực lúc này chẳng còn quan trọng, Seb và Mia có được kết cục viên mãn cũng chẳng còn quan trọng, trải nghiệm từng ấy cung bậc với chưa tới 200 phút, kỳ diệu!
Viết khen hết lời như thế không có nghĩa phim là kiệt tác không tỳ vết đâu, nhưng giấc mơ mà, lại còn vào giáng sinh, nên thôi hãy cứ thứ tha mà tiếp tục khờ dại và mộng mơ thôi!
Nhận xét
Đăng nhận xét